Chế độ dinh dưỡng của trẻ Suy dinh dưỡng thấp còi
Cập nhật: 10/15/2018 - Lượt xem: 22131
Suy
dinh dưỡng (SDD) là tình trạng cơ thể thiếu hụt về protein - năng lượng
và các vi chất dinh dưỡng gây ra do giảm tiêu thụ thực phẩm và/hoặc do
bệnh tật. Thuật ngữ Suy dinh dưỡng thấp còi được sử dụng để mô tả tình
trạng trẻ em không đạt được chiều cao theo độ tuổi, giới. Đây là thể SDD
mạn tính, phản ánh sự tích luỹ lâu dài quá trình SDD và hoặc nhiễm
khuẩn lặp đi lặp lại, và các thiếu hụt khác kéo dài qua nhiều thế hệ. SDD thấp còi thể hiện tình trạng không đạt được chiều cao tối đa theo di truyền.
SDD
thấp còi được coi là trở ngại lớn nhất của con người trong quá trình
tăng trưởng và phát triển, ảnh hưởng tới 155 triệu trẻ em dưới 5 tuổi
trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, theo số liệu thống kê năm 2016, tỷ lệ
trẻ SDD thấp còi đang ở mức 24,3% nghĩa là cứ 4 trẻ dưới 5 tuổi thì có 1
trẻ bị SDD thấp còi. Các yếu tố liên quan đến SDD thấp còi ở trẻ em
được xác định là: cân nặng sơ sinh thấp, trình độ học vấn của bà mẹ,
nghề nghiệp, kinh tế hộ gia đình, tình trạng dinh dưỡng của bà mẹ và các
tình trạng bệnh lý khác như tiêu chảy, sốt… Các phân tích cho thấy cân
nặng sơ sinh thấp ảnh hưởng lớn đến khả năng SDD thấp còi sau này của
trẻ. Trình độ học vấn có liên quan đến sự hạn chế về kiến thức chăm sóc
nuôi dưỡng trẻ của bà mẹ. Các gia đình ở nông thôn điều kiện kinh tế kém
hơn trẻ có nguy cơ mắc SDD thấp còi cao hơn do khả năng tiếp cận với
lương thực thực phẩm hạn chế. Bà mẹ có chiều cao thấp so với chiều cao
trung bình (< 153 cm) có nguy cơ con bị mắc SDD thấp còi cao hơn so
với bà mẹ có chiều cao trung bình. Các bé gái được sinh ra bị SDD khi
lớn lên trở thành những bà mẹ bị SDD và sinh con SDD theo chu kỳ lặp đi
lặp lại.
SDD
thấp còi là một trong những yếu tố nguy cơ làm tăng tỉ lệ tử vong ở trẻ
sơ sinh, suy giảm sức khỏe lúc còn nhỏ và khi trưởng thành, giảm khả
năng học tập và năng suất lao động, tăng nguy cơ mắc các bệnh không lây
nhiễm như đái tháo đường, ung thư ... sau này. Hầu hết các trường hợp
SDD thấp còi xảy ra trước khi trẻ 3 tuổi là hậu quả của việc không nhận
đủ thức ăn và chất lượng thức ăn không đảm bảo .
Thiếu ăn, đói nghèo, bệnh tật là một trong những nguyên nhân trực tiếp
gây ra SDD thấp còi. Để có hiệu quả tốt nhất, các can thiệp phòng chống
SDD thấp còi cần được tiến hành sớm, tốt nhất là trong giai đoạn “cửa sổ
cơ hội”: đó là 1000 ngày vàng từ khi trong bào thai cho đến khi trẻ
được 2 tuổi. Trẻ em có khả năng đạt được chiều cao tối đa theo tiềm năng nếu được nuôi dưỡng trong môi trường lành mạnh, hưởng các dịch vụ về y tế, dinh dưỡng và chăm sóc đúng cách.
Sự phát triển chiều cao của trẻ phụ thuộc vào gen di truyền và các yếu tố môi trường khác như dinh dưỡng, bệnh tật: Sự phát triển chiều cao của trẻ phụ thuộc vào gen di truyền và
các yếu tố môi trường khác như dinh dưỡng, bệnh tật. Trong đó dinh
dưỡng được coi là yếu tố bên ngoài quan trọng nhất. Ước tính chiều cao
của trẻ khi trưởng thành sẽ tăng thêm trung bình khoảng 77 cm tính từ khi chiều cao của trẻ
3 tuổi. Giai đoạn 1000 ngày đầu đời (từ khi bà mẹ mang thai đến khi bé
24 tháng tuổi – tròn 2 tuổi) được coi là giai đoạn lập trình cho sự tăng
trưởng và phát triển sau này của trẻ. Tăng cường dinh dưỡng và thực
phẩm bổ sung đối với trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ là những can thiệp có tác
động tích cực đến chiều cao của trẻ. Đối với những trẻ bị SDD, việc bổ
sung vitamin A, sắt/acid folic, kẽm, i ốt, canxi, đa vi chất có thể coi
là hiệu quả giúp trẻ bắt kịp đà tăng trưởng.
Dinh dưỡng bà mẹ có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của thai nhi: Dinh
dưỡng trước và trong khi mang thai có ảnh hưởng đến sự phát triển của
thai nhi. Chế độ dinh dưỡng không đầy đủ và tình trạng dinh dưỡng kém
của người mẹ làm hạn chế tăng trưởng của thai nhi, do đó ảnh hưởng đến
sự phát triển của não bộ. Người mẹ SDD khi có thai làm tăng nguy cơ sinh
trẻ nhẹ cân, thấp còi và sảy thai. Tình trạng phát triển của thai nhi
gắn liền với dinh dưỡng của người mẹ và trọng lượng sơ sinh thấp là một yếu tố liên quan chính ảnh hưởng đến sự phát triển tinh thần, thể chất và nhận thức của trẻ.
Sữa mẹ là thức ăn lý tưởng và tốt nhất cho trẻ: Sữa
mẹ là thức ăn lý tưởng và tốt nhất cho trẻ sơ sinh, với công thức độc
đáo, cân bằng về dinh dưỡng cần thiết cho chức năng tế bào tối ưu và
tăng trưởng. Hơn nữa, thành phần các chất dinh dưỡng trong sữa mẹ thay
đổi phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng từng thời kỳ phát triển của trẻ. Nuôi
con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu giúp cải thiện sức khỏe và
sự phát triển của trẻ.
Cách phát hiện trẻ SDD thấp còi: Để
xác định được trẻ có phải là SDD thấp còi hay không cần đo chiều dài
nằm/ chiều cao đứng của trẻ và sử dụng chuẩn tăng trưởng của Tổ chức Y
tế thế giới (WHO) năm 2006 cho trẻ dưới 5 tuổi để xác định tình trạng
dinh dưỡng và mức độ SDD. Đo chiều dài nằm với trẻ dưới 24 tháng tuổi và
đo chiều cao đứng với trẻ từ 24 tháng tuổi trở lên, kết quả đo được so sánh với chuẩn tăng trưởng của WHO theo từng lứa tuổi (tính theo tháng). Trẻ SDD thể thấp còi khi chiều
cao của trẻ thấp hơn so với mức tiêu chuẩn của trẻ cùng tuổi, cùng giới
(dưới ngưỡng -2SD). Trẻ dưới 2 tuổi cần được cân, đo định kỳ hàng tháng
để kịp thời phát hiện sớm dấu hiệu chậm tăng trưởng của trẻ: trẻ dưới 1
tuổi nên cân đo 1 tháng/1lần, trẻ 1 tuổi trở lên: 2-3 tháng/lần, nên sử
dụng biểu đồ tăng trưởng để theo dõi. Trẻ từ 2 tuổi đến dưới 5 tuổi có
thể cân đo 6 tháng 1 lần. Nếu phát hiện trẻ bị SDD cần cân, đo 1 tháng/1
lần.
Chế độ dinh dưỡng cho trẻ SDD thấp còi: Hai vấn đề cần lưu ý trong chăm sóc trẻ SDD thấp còi đó là giúp phát triển chiều cao tối ưu để bắt
kịp đà tăng trưởng và tăng cường miễn dịch. Thấp còi cần được dự phòng
bằng các chăm sóc dinh dưỡng bắt đầu từ giai đoạn bà mẹ trước và trong
khi mang thai đến khi trẻ sinh ra, nuôi con bằng sữa mẹ, trẻ ăn bổ sung
đến lứa tuổi tiền học đường. Cần đảm bảo đủ dinh dưỡng theo nhu cầu của trẻ là yếu tố chính tác động đến khả năng phát triển chiều cao của trẻ.
Trước, trong khi mang thai bà mẹ cần được bổ sung viên sắt/acid folic hoặc viên đa vi chất, bổ sung canxi cho bà mẹ có nguy cơ do chế độ ăn thấp canxi (nếu bà mẹ không dùng sữa và chế phẩm sữa, ít ăn cá tôm cua, đậu đỗ...),
bổ sung protein và năng lượng cân bằng, dùng muối i ốt trong chế biến
thức ăn. Trẻ cần bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh, bú hoàn toàn
trong 6 tháng đầu và cho trẻ bú mẹ đến 24 tháng tuổi hoặc
lâu hơn. Bổ sung vi chất cho trẻ em có nguy cơ: bổ sung vitamin A cho
trẻ em từ 6 – 59 tháng tuổi, bổ sung kẽm dự phòng cho trẻ từ 12 – 59
tháng tuổi. Trẻ
từ 6 tháng trở lên, cho trẻ ăn bổ sung đúng cách. Đảm bảo bữa ăn của
trẻ đa dạng các loại thực phẩm trong đó nhóm dầu mỡ là bắt buộc, sử dụng
các thức ăn giàu đạm động vật như thịt, trứng, tôm, cua, cá… Tăng đậm
độ năng lượng, hóa lỏng bữa ăn bổ sung bằng cách thêm dầu/mỡ, bằng
giá đỗ hoặc men tiêu hóa, tăng cường các loại quả tươi giàu vitamin.
Cần ăn tăng các thực phẩm giàu canxi như cá, tôm, cua, nấu nhừ để ăn cả
xương hoặc giã vỏ lọc lấy nước sẽ hấp thu được nhiều canxi.
Một số vi chất dinh dưỡng tác động đến phát triển chiều cao ở trẻ
Vitamin A, I ốt, sắt: Vitamin
A rất cần thiết cho tầm nhìn, sự biệt hoá về tế bào, chức năng miễn
dịch và tạo xương. Iốt là nguyên tố vi lượng thiết yếu để ngăn ngừa bệnh
bướu cổ và bệnh chậm phát triển trí não đần độn. Trong giai đoạn phát
triển, cơ thể phụ thuộc nhiều vào sắt, sắt giúp vận chuyển oxy tới các
tế bào cơ thể.. Các thực phẩm giàu sắt như thịt, hải sản, đậu đỗ, rau
màu xanh đậm, thực phẩm tăng cường sắt.
Canxi: Thức ăn giàu canxi bao gồm sữa, phomat, các sản phẩm từ sữa, rau có màu xanh thẫm, sản phẩm từ đậu tương, cá,…Gần đây ở thị trường Việt Nam đã
xuất hiện nhiều sản phẩm có tăng cường canxi như bánh mỳ, bánh bích
quy, nước cam, ngũ cốc ăn liền. Nhu cầu canxi của trẻ dưới 6 tháng tuổi
là 300 mg/ngày, từ 6 -11 tháng tuổi là 400 mg/ngày, từ 1 – 2 tuổi là 500
mg/ngày, từ 3 – 5 tuổi là 600 mg/ngày. Phụ nữ có thai và cho con bú có
nhu cầu canxi cao nhất tương ứng là 1200 mg và 1300 mg.
Trẻ
từ 3 - 5 tuổi mỗi ngày nên sử dụng 4 đơn vị ăn sữa và chế phẩm sữa, 1
đơn vị chứa 100 mg canxi có trong 1 miếng phô mai (15g phô mai), 100ml
sữa chua (1 hộp sữa chua) và 200ml sữa dạng lỏng (2 ly sữa nhỏ).
Kẽm: Kẽm
giúp tăng hấp thu, tăng tổng hợp chất đạm, phân chia tế bào, tăng cảm
giác ngon miệng. Thiếu kẽm sẽ làm chậm phát triển chiều cao, rối loạn
phát triển xương, chậm dậy thì và giảm chức năng sinh dục, gây biếng ăn
do rối loạn vị giác. Trẻ biếng ăn kéo dài sẽ dễ bị SDD, lâu dần sẽ ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển. Kẽm
cũng tương tác với những hormon quan trọng tham gia vào tăng trưởng
xương. Kẽm làm tăng hiệu quả của vitamin D lên chuyển hoá xương thông
qua kích thích tổng hợp ADN trong tế bào xương.
Các
thực phẩm giàu kẽm gồm có thịt đỏ, một số hải sản, ngũ cốc nguyên hạt
và một số ngũ cốc ăn liền được tăng cường kẽm. Trong 100g sò chứa 13,4
mg kẽm, 100g thịt lợn chứa 5,76 mg kẽm, 100g thịt bò chứa 4,05 mg kẽm.
Vitamin D: Trong
tự nhiên, rất ít thực phẩm có lượng đáng kể vitamin D. Các thực phẩm có
vitamin D gồm một số dầu gan cá, nhất là ở các loại cá béo, gan và chất
béo của động vật có vú ở biển (hải cẩu và gấu vùng cực), trứng gà được
nuôi có bổ sung vitamin D, dầu tăng cường vitamin D. Trong 100g cá chép chứa 24,7 mcg vitamin D, 100g cá hồi chứa 10,88 mcg vitamin D, lòng đỏ trứng gà chứa 2,88 mcg/100g. Thực
phẩm giàu vitamin D giúp tăng cường hấp thu canxi, làm xương chắc khoẻ
và tăng trưởng tốt. Trẻ cần tăng cường vận động ngoài trời và sử dụng
những thực phẩm giàu vitamin D và canxi.
Ngoài
tác dụng giúp tăng trưởng chiều cao, các vi chất dinh dưỡng còn giúp
tăng cường miễn dịch đối với trẻ bị SDD thấp còi, đó là hai vấn đề quan trọng để trẻ SDD thấp còi phát triển chiều cao tối ưu để bắt kịp đà tăng trưởng và phòng chống bệnh tật.
Chế
độ dinh dưỡng lành mạnh theo vòng đời là điều cần thiết cho sự phát
triển và chiều cao của con người. Di truyền là một yếu tố chính trong
chiều cao tổng thể, nhưng dinh dưỡng là chìa khóa để có xương và cơ khỏe
mạnh sẽ giúp đạt được chiều cao tối ưu, phòng chống SDD thấp còi ở trẻ
nhỏ.
Ths.Bs. Ngô Thị Hà Phương - Viện Dinh dưỡng